Thứ Năm, 30 tháng 11, 2017

Chuyển mùa, bệnh hen suyễn dễ xuất hiện


Bệnh hen xảy ra quanh năm, nhưng khi thời tiết thay đổi (nóng lạnh đột ngột, mưa, ẩm ướt) bệnh hay xuất hiện. Với người cao tuổi (NCT), hen sẽ gây nên phiền phức và nguy hiểm hơn nhiều do sức đề kháng kém.

Tại sao bị bệnh hen?
Ở trẻ em, bệnh hen được gọi là viêm phế quản co thắt hay hen phế quản. Người trưởng thành, bệnh hen được gọi là hen suyễn hoặc hen. Bệnh hen có thể bị mắc từ lúc còn rất nhỏ - “hen sữa”. Có nhiều trường hợp càng lớn lên bệnh càng thuyên giảm và hết hẳn nhưng cũng có trường hợp bệnh không dứt điểm bao giờ và cũng có trường hợp lúc nhỏ không bị hen suyễn nhưng về già lại mắc chứng bệnh này. Yếu tố cơ địa dị ứng là nguyên nhân hàng đầu của bệnh hen. Lý do là khi cơ thể gặp các dị ứng nguyên (chất lạ đối với cơ thể) hoặc các loại có tính chất kích ứng, sẽ gây nên phản ứng dị ứng, tức là bị lên cơn hen, trong đó có liên quan đến thời tiết thay đổi đột ngột, lạnh, ẩm ướt, gió mùa Đông Bắc, áp thấp nhiệt đới.  Vì vậy, ở người có cơ địa dị ứng (viêm mũi dị ứng, bệnh mề đay, bệnh viêm da dị ứng, bệnh tổ đĩa, bệnh chàm, bệnh exzema) thường mắc bệnh hen.
Một số vi sinh vật (vi khuẩn, virút, vi nấm) cũng có thể là dị ứng nguyên kích thích cơ thể gây hen, đặc biệt là một số ký sinh trùng (mò, mạt, nấm mốc, giun đũa). Hen còn có thể do tác động của khói, bụi, hóa chất (khói bếp, khói thuốc lá, khói công nghiệp, hóa chất độc hại) hoặc lông chó, mèo… Một số thực phẩm cũng có thể kích thích gây nên cơn hen hoặc làm cho bệnh hen tăng lên khi ăn (tôm, cua, mắm tôm). Ngoài ra, một số thuốc điều trị bệnh khớp thuộc nhóm không steroid có tác dụng phụ là gây bệnh hen hoặc làm cho bệnh hen tăng lên (aspirin, diclofenac, piroxicam…) hoặc thuốc điều trị tăng huyết áp (atenolol…). Hen có thể do di truyền, nếu bố hoặc mẹ bị hen, các con có thể bị hen (25 - 30% nguy cơ con mắc bệnh); nếu cả bố và mẹ bị mắc bệnh hen, có từ 50 - 60% nguy cơ con mắc bệnh.
Biểu hiện của bệnh
Triệu chứng điển hình nhất của hen là ho và khò khè. Ho có thể kéo dài và thường hay xảy ra nhất là lúc thời tiết chuyển mùa, nóng, lạnh đột ngột, ẩm ướt. Ho thường xuất hiện cả ngày lẫn ban đêm nhưng ban đêm thường xảy ra nặng hơn, dồn dập hơn. Ho thường ho là ho khan, ho từng tiếng một. Đối với NCT, ho thường là dấu hiệu đầu tiên của cơn hen bắt đầu xuất hiện. Thông thường bệnh nhân hen có kèm theo viêm đường hô hấp trên (viêm mũi dị ứng, viêm họng), cho nên ho của bệnh hen rất dễ nhầm với ho do mắc các bệnh hô hấp khác. Tuy vậy, có một số bệnh nhân bị hen chỉ có biểu hiện duy nhất là ho, đặc biệt là nửa đêm về sáng.

Đi đôi với ho là triệu chứng khò khè do co thắt phế quản. Tiếng rít thường nghe được khi thở ra. Khò khè xảy ra cả ban ngày, cả ban đêm nhưng ban đêm thường diễn biến nặng hơn, dồn dập hơn, đặc biệt là mưa nhiều, lạnh, ẩm ướt, gió mùa đông bắc tràn về. Khi thấy cơn hen xuất hiện cần cảnh giác với cơn hen ác tính, nếu không cấp cứu kịp thời có thể nguy hiểm đến tính mạng
Tăng xuất tiết cũng thường gặp ở người hen cho nên có rất nhiều đờm. Người bệnh luôn cảm thấy nặng ngực (cảm giác giống như lồng ngực bị bóp chặt) và khó thở (khó thở ra) do phế quản bị co thắt. Khó thở thường hay bị tái phát nhiều lần.
Trong trường hợp bị bội nhiễm đường hô hấp, có thể có sốt, vì vậy, bệnh trở nên nặng hơn, thậm chí nguy kịch hơn, đặc biệt là NCT sức yếu.
Đặc điểm của hen là các triệu chứng chỉ xảy ra trong cơn hen, ngoài cơn hen, ho, khó thở, khò khè, người bệnh trở về bình thường.

Nguyên tắc điều trị và phòng bệnh
Mùa lạnh đang đến, người bị hen cần hết sức cảnh giác đề phòng cơn hen ác  tính xảy ra. Vì vậy, cần dùng thuốc thường xuyên theo đơn của bác sĩ khám bệnh cho mình, đặc biệt là thuốc xịt họng cắt cơn hen và phòng cơn hen. Với NCT bị hen, các loại thuốc này thường xuyên phải có ở ngay bên mình (ngay đầu giường nằm hoặc trong túi xách, cặp khi ra khỏi nhà). Tuy nhiên, dùng loại thuốc nào có lợi cho người bệnh cần có chỉ định của bác sĩ khám bệnh, người bệnh không nên tự mua thuốc để điều trị cho bản thân mình hoặc điều trị cho người nhà của mình. Khi bệnh hen đã được kiểm soát, người bệnh nên khám định kỳ, khoảng từ 1 - 3 tháng/1 lần. Tuy vậy, khi người bệnh không đáp ứng được thuốc giãn phế quản, khó thở tăng lên, bệnh diễn biến nặng lên cần đi bệnh viện ngay.
PGS.TS. BÙI KHẮC HẬU

Thứ Năm, 16 tháng 11, 2017

Cảnh giác các dấu hiệu nghiêm trọng của bệnh tim mạch

Ngày nay bệnh lý tim mạch gặp tỉ lệ tương đối cao ở người cao tuổi. Theo Tổ chức Y tế Thế giới có khoảng 5 triệu người mắc suy tim mỗi năm.
Trong đó tỷ lệ tử vong sau 5 năm gần 50%. Ở Việt Nam bệnh nhân mắc các bệnh về tim mạch chiếm tỉ lệ 60% các bệnh nội khoa. Tuy nhiên, nếu biết cách nhận biết cũng như thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa thì người cao tuổi vẫn có thể hạn chế sự phát triển và sống chung hòa bình với bệnh tim mạch.

Nguyên nhân nào gây bệnh tim mạch?

Mạch máu bị xơ cứng: Ở người trẻ tuổi, mạch máu thường mềm mại, có tính đàn hồi và co giãn giúp tim co bóp để đẩy máu vào mạch máu dễ dàng. Nhưng ở người cao tuổi, mạch máu trở nên cứng và kém đàn hồi khiến tim luôn gặp sức cản khi co bóp bơm máu vào động mạch nên phải hoạt động nhiều hơn. Bên cạnh đó, tình trạng xơ vữa động mạch cũng làm cho cấu trúc mạch máu bị biến đổi như thành mạch dày lên, lòng mạch hẹp lại. Đầu tiên, những thay đổi này sẽ gây bệnh tăng huyết áp. Người cao tuổi thường có huyết áp tâm thu (số trên) cao nhưng huyết áp tâm trương (số dưới) lại thấp, nếu hai con số này chênh lệch nhau nhiều dễ gây các bệnh tim mạch. Hậu quả cuối cùng là suy tim.
Biến đổi về cấu trúc tim: Trong tim có các cơ quan rất nhỏ làm nhiệm vụ phát tín hiệu để tim co bóp. Bình thường, chúng hoạt động đều đặn và chặt chẽ, tạo ra nhịp tim rất đều. Nhưng ở người cao tuổi, các biến đổi về cấu trúc của tim có thể ảnh hưởng đến các cơ quan này, gây ra tình trạng loạn nhịp tim, nghĩa là tim đập quá nhanh, quá chậm hay không đều. Không chỉ thế, các van tim ở người cao tuổi cũng bị thoái hóa, trở nên xơ và hóa vôi gây nên bệnh van tim người cao tuổi.
Bệnh tim mạch thường gặp

Tăng huyết áp
Chỉ số huyết áp bình thường của người già ở độ tuổi từ 60 đến 64 thông thường là 134/87 mmHg. Tuy nhiên, đối với người trên 70 tuổi thì huyết áp tâm thu (chỉ số tối đa) sẽ có trị số lớn hơn một ít, ở khoảng 140-160 mmHg. Người già thường mắc phải các kiểu huyết áp như cao huyết áp tâm thu, cao huyết áp áo choàng trắng và cao huyết áp giới hạn. Đây là ba kiểu huyết áp gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và dễ dẫn đến tình trạng bị nhồi máu cơ tim, tắc nghẽn cơ tim, đột quỵ… Theo thống kê năm 2015 của Hội Tim mạch học Việt Nam khoảng 30% người từ 60 – 65 tuổi và 40% người trên 65 tuổi bị cao huyết áp. Khi bị bệnh tăng huyết áp, người cao tuổi nên xác định cần sống chung với bệnh cùng việc sử dụng thuốc điều trị huyết áp hàng ngày kết hợp với chế độ ăn uống, luyện tập phù hợp. Các thuốc trị huyết áp đang được dùng hiện nay bao gồm thuốc lợi tiểu, thuốc chẹn kênh calci, thuốc chẹn α-adrenergic, thuốc ức chế men chuyển và ức chế thụ thể angiotensin, thuốc chẹn β-adrenergic, thuốc giãn mạch trực tiếp.

Bệnh động mạch vành

Bệnh động mạch vành là tình trạng xuất hiện những mảng xơ vữa, khiến cho lòng động mạch bị chít hẹp, giảm khả năng lưu thông của máu nên không cung cấp đủ oxy và chất dinh dưỡng cho cơ thể. Mảng xơ vữa phát triển lớn dần theo thời gian, lưu lượng máu và oxy cung cấp cho tim vì thế càng ngày càng giảm. Tim suy yếu dần do thiếu oxy lâu dài nên thường dẫn đến suy tim hoặc nhồi máu cơ tim. Nguy cơ bệnh động mạch vành tăng khi tuổi tác càng cao. Bệnh là nguyên nhân gây tử vong cao nhất ở người cao tuổi (trên 65 tuổi) và cũng là bệnh lý ảnh hưởng đến tuổi thọ nhiều hơn bất kỳ bệnh lý tim mạch nào khác. Phương pháp điều trị bệnh mạch vành ở người cao tuổi bao gồm dùng thuốc, can thiệp động mạch vành qua da và phẫu thuật bắc cầu động mạch vành.

Rối loạn nhịp tim

Bình thường quả tim đập nhịp nhàng 65-70 lần/phút. Khi các xung động dẫn truyền bị rối loạn, các buồng tim (thất, nhĩ) co bóp không theo tuần tự sẽ dẫn đến loạn nhịp tim. Có nhiều dạng rối loạn nhịp tim bao gồm rối loạn nhịp tim nhanh, block nhĩ thất, rối loạn nhịp tim chậm. Triệu chứng cảnh báo bệnh lý này được kể đến là mệt mỏi, chóng mặt, choáng ngất, đau thắt ngực, khó thở, hồi hộp… Để điều trị, tùy thuộc vào từng loại rối loạn nhịp tim ở từng người bệnh sẽ có các biện pháp cụ thể bao gồm dùng thuốc, thay đổi lối sống, đặt máy tạo nhịp tim, máy khử rung tim, cô lập tĩnh mạch phổi hay triệt đốt ổ loạn nhịp bằng sóng cao tần.

Suy tim

Suy tim là một biến chứng thường gặp của một số bệnh ở người cao tuổi, người trên 65 tuổi chiếm ít nhất 20% số bệnh nhân nhập viện. Khoảng 85% tử vong vì suy tim xảy ra ở bệnh nhân trên 65 tuổi. Tần suất suy tim gia tăng theo tuổi. Nguyên nhân do người cao tuổi mắc bệnh tăng huyết áp nhưng không điều trị, mắc bệnh thiếu máu cơ tim; nhồi máu cơ tim; bệnh van tim (hẹp, hở van 2 lá, hẹp hở van động mạch chủ); bệnh tim bẩm sinh không điều trị bằng phẫu thuật (hẹp van động mạch phổi, còn ống động mạch…); viêm cơ tim; loạn nhịp tim kéo dài…; cường giáp không điều trị, suy thận mạn tính. Ngoài ra còn do một số bệnh của mạch máu và khoảng 40% không tìm được nguyên nhân cụ thể. Nguyên tắc điều trị suy tim ở người cao tuổi là điều trị các tác nhân thúc đẩy bệnh tiến triển, điều trị tình trạng ứ nước và natri, cải thiện tối ưu chức năng co bóp cơ tim, giảm gánh nặng đối với tim… bằng các loại thuốc (thuốc lợi tiểu, thuốc giãn mạch, thuốc ức chế men chuyển, thuốc chẹn beta…) hay điều trị ngoại khoa (trường hợp suy tim mạn tính có thể được chỉ định phẫu thuật ghép tim).
Ngoài ra, ở người cao tuổi còn thường gặp các bệnh về van tim bao gồm hẹp van động mạch chủ, sa van hai lá, hẹp dưới van động mạch chủ phì đại nguyên phát.

Dấu hiệu nghiêm trọng cần đi khám

Đau thắt ngực: Thường xảy ra đột ngột khi gắng sức hay xúc động với cảm giác bị đè nặng như bị bóp nghẹt giữa ngực, có thể lan xuyên lên vai trái) hay tay trái, kéo dài vài phút, kèm theo khó thở hay vã mồ hôi. Nếu ngưng gắng sức và nghỉ ngơi thì triệu chứng sẽ hết trong vài phút. Đây có thể là biểu hiện của thiếu máu cơ tim nhưng cũng có thể là nhồi máu cơ tim khi mạch máu nuôi tim bị tắc hoàn toàn và đau thắt ngực kéo dài hơn 20 phút. Nhồi máu cơ tim là bệnh lý cần cấp cứu tại bệnh viện càng sớm càng tốt thì mới điều trị thành công.
Khó thở: Khó thở có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng nếu khó thở khi gắng sức, mệt mỏi khi vận động thì cần đi khám sớm vì có thể đây là dấu hiệu của suy tim. Nguyên nhân do khi tim bị suy yếu không bơm máu đến các cơ quan đầy đủ, người bệnh sẽ thấy mệt khi vận động. Ngoài ra, máu bị ứ lại ở phổi sẽ gây khó thở khi gắng sức, ứ lại ở gan gây đau ở sườn bên phải, ứ lại ở chân gây phù hai chi dưới. Khi có triệu chứng nghi ngờ, bác sĩ sẽ yêu cầu làm siêu âm tim và chụp x quang phổi để chẩn đoán bệnh chính xác.
Hồi hộp, đánh trống ngực: Đôi khi kèm theo chóng mặt, ngất xỉ là triệu chứng chung nhất của rối loạn nhịp tim. Có rất nhiều loại bệnh khác nhau, một số loại không quá nguy hiểm (như rung nhĩ), một số khác rất nguy hiểm và cần điều trị ngay (như nhịp nhanh thất). Để biết có bị rối loạn nhịp hay không, người bệnh có thể tự sờ mạch ở tay hay cổ cũng có thể biết nhịp tim không đều. Để chẩn đoán rối loạn nhịp tim, cần phải đo điện tâm đồ. Ở người cao tuổi, bệnh có thể không có triệu chứng, nhiều khi rối loạn nhịp tim xảy ra thành từng cơn, do đó để chẩn đoán có thể cần phải gắn máy ghi điện tim liên tục cả ngày (gọi là máy Holter).

Phòng tránh bệnh thế nào?

Bệnh tim mạch ở người già có thể khắc phục và ngăn ngừa hoàn toàn bằng cách thay đổi lối sống, có chế độ ăn uống hợp lý và giữ tinh thần thoải mái.
Thay đổi lối sống: Người cao tuổi nên ngưng hút thuốc lá vì trong thuốc lá có chất nicotine có khả năng làm giảm oxy trong máu và tổn thương niêm mạc của các mạch máu. Thường xuyên kiểm soát huyết áp mỗi tháng để đề phòng cao huyết áp. Kiểm tra sức khỏe định kỳ, kiểm soát bệnh tiểu đường bằng cách giảm lượng cholesterol, kiểm soát chặt chẽ lượng đường trong máu có thể giúp giảm nguy cơ bệnh tim. Tập luyện thể dục thể thao đều đặn từ 30 đến 60 phút mỗi ngày.
Chế độ ăn uống hợp lý: Người cao tuổi nên thực hiện chế độ ăn ít cholesterol bão hòa, chất béo và natri để giúp kiểm soát cân nặng, huyết áp và cholesterol. Chế độ ăn nên giảm muối (không quá 1/3 muỗng cà phê muối trong một ngày), hạn chế rượu (nhất là với trường hợp bị suy tim do tương tác với thuốc điều trị suy tim, giảm khả năng co bóp của cơ tim, gây rối loạn nhịp tim). Tránh dùng các thuốc gây giữ nước như corticoid…
Thư giãn tinh thần: Người cao tuổi cần được sống trong môi trường trong sạch, gia đình đầm ấm, hạnh phúc để giảm căng thẳng và giảm bệnh tật nói chung, bệnh tim mạch nói riêng. Người cao tuổi cũng nên tham gia các câu lạc bộ và tự tìm kiếm niềm vui tuổi già với các thú vui khác nhau như chơi cây cảnh, chim cảnh, đánh cờ...
Khám sức khỏe định kỳ: Ba đến sáu tháng nên khám sức khỏe định kỳ để phát hiện các yếu tố nguy cơ đễn đến bệnh tim mạch, như rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, phồng bóc tách động mạch, thiếu máu cơ tim, các bệnh về van tim… Đặc biệt những bệnh nhân đã bị bệnh tim mạch rồi thì càng phải đi kiểm tra thường xuyên để tránh những biến chứng.
BSCKII. Lê Xuân Bách (Báo SKDS)

Thứ Tư, 1 tháng 11, 2017

Chống ung thư - Cuộc chiến không ngừng nghỉ

Những năm gần đây, ngành dược dường như ít bàn luận hơn về các thuốc tim mạch, tăng huyết áp hay đái tháo đường.
Thay vào đó, người ta nhắc nhiều hơn đến ung thư - một khái niệm gắn liền với chết chóc và đang là bóng mây ảm đạm che phủ bầu trời các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình (LMICs). Tuy nhiên, với vấn đề ô nhiễm môi trường thì việc kiểm soát được bệnh ung thư đang đặt ra một thách thức đối với y tế toàn cầu.

Gánh nặng toàn cầu

Trong hội nghị Nghiên cứu Ung thư quốc tế được tổ chức bởi Viện nghiên cứu ung thư Hoa Kỳ cho biết, trong năm 2012, có khoảng 14,1 triệu trường hợp ung thư mới mắc nhưng con số này sẽ tăng lên khoảng 24 triệu ca trong hai thập kỷ tới. Ước tính tới năm 2030, số bệnh nhân tử vong vì ung thư tăng tới 80% so với con số hiện tại và nhiều trong số đó xảy ra ở các nước LMICs.

Ô nhiễm môi trường làm gia tăng bệnh

Vấn đề ô nhiễm môi trường làm gia tăng bệnh ung thư có thể nói đến Trung Quốc là một điển hình. Theo một báo cáo mới đây, ước tính có tới 4,3 triệu ca ung thư mới mắc và hơn 2,8 triệu ca tử vong do ung thư ở Trung Quốc trong năm 2015. Điều này tương đương với mỗi ngày sẽ có gần 12.000 người Trung Quốc được chẩn đoán mới và 7.500 người chết vì ung thư. Trong đó, ung thư phổi/phế quản (tỉ lệ cao nhất), dạ dày, gan, thực quản và kết trực tràng, chiếm khoảng 3/4 tổng số trường hợp tử vong do ung thư.
Sử dụng các thuốc được bào chế ở cấp độ phân tử tế bào để tấn công tế bào ung thư.

Lý giải cho tình trạng này phải kể đến các nguyên nhân chính: Ô nhiễm không khí ngoài trời, ô nhiễm không khí trong nhà do sử dụng than đá, khí ga làm chất đốt, ô nhiễm đất và nước do người dân thải trực tiếp hóa chất gây ung thư do môi trường.

Nhiều thuốc mới được ra đời

Cuộc chiến chống ung thư sẽ là một cuộc chiến dai dẳng và khốc liệt. Và có một điều chắc chắn rằng nhân loại chưa một phút đầu hàng trong cuộc chiến này.
Rất nhiều tổ chức, hiệp hội, viện nghiên cứu được thành lập. Nhiều chương trình điều trị, phòng chống, tầm soát ung thư cấp quốc gia hoặc khu vực được triển khai. Nhiều hoạt động, sự kiện giúp đỡ cho bệnh nhân ung thư đã được tiến hành. Và ngành dược luôn song hành trong cuộc chiến đó. Tính từ năm 2010 đến nay đã có hơn 140 hoạt chất mới/dạng bào chế mới/chỉ định mới được FDA chấp thuận đưa vào sử dụng trong điều trị ung thư. Theo thống kê của IMS, có hơn 500 công ty đang tích cực nghiên cứu, theo đuổi các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn cuối trên gần 600 phân tử với hứa hẹn điều trị tích cực các bệnh ung thư phổi tế bào nhỏ, vú, tuyến tiền liệt, buồng trứng và kết trực tràng.
Cũng theo thống kê của IMS, trong 5 năm qua đã có 70 phương pháp điều trị ung thư mới được phát minh hỗ trợ điều trị 20 dạng ung thư khác nhau. Thị trường thuốc ung thư đã tăng trưởng 11,5% trong năm 2015 để đạt mức 107 tỉ USD và sẽ luôn duy trì trong mức 7,5-10,5% từ nay đến năm 2020 và cán mốc 150 tỉ USD. Các danh mục thuốc ung thư trong phát triển lâm sàng đã được mở rộng hơn 60% trong 10 năm qua. Hiện nay có khoảng 20 thuốc ung thư được xếp vào hàng “bom tấn” nhưng các chuyên gia dự đoán rằng con số này sẽ tăng lên ít nhất là 29 vào năm 2018.
Với mối quan tâm hàng đầu đến từ ung thư phổi, việc giảm sử dụng thuốc lá và cải thiện ô nhiễm môi trường luôn là vấn đề ưu tiên. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu đang cố gắng phát triển các phương pháp để phát hiện sớm ung thư để giúp làm giảm tỉ lệ tử vong. Điển hình, một chương trình được hợp tác giữa Viện Nghiên cứu Ung thư Hoa Kỳ và ngành y tế Trung Quốc cho thấy việc giảm tới 20% nguy cơ tử vong do ung thư phổi nếu được phát hiện sớm bằng chụp CT xoắn ốc (spiral CT) so với chụp Xquang thông thường trên bệnh nhân nghiện thuốc lá nặng.
Việc áp dụng hình ảnh phân tử (một xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh) vào điều trị ung thư một cách hiệu quả cũng góp phần chẩn đoán sớm ung thư ngay cả khi chưa có bất kỳ thay đổi nào trong chức năng cơ thể hoặc giải phẫu. Dựa trên nguyên lý sử dụng các marker sinh học (chất đánh dấu sinh học) riêng biệt đối với từng bệnh và quét thấy chúng trên scan còn giúp bác sĩ theo dõi được tiến triển của điều trị.
Một trong những nỗ lực đáng kể cải thiện gánh nặng ung thư toàn cầu đó là việc gia tăng sử dụng các loại vắc-xin phòng chống ung thư. Chẳng hạn như vắc-xin viêm gan b (HBV - là nguyên nhân gây ung thư gan), bệnh gặp nhiều ở các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Tiếp đó là những nỗ lực tăng cường độ phủ của vắc-xin HPV trong các nước LMICs. Các chuyên gia cũng đang nghiên cứu để phát hiện ra liều tối ưu cho loại vắc-xin này: Từ 3 liều xuống 2 liều và có thể là 1 liều trong tương lai. Tiếp sau HPV, chúng ta sẽ chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của một số loại vắc-xin khác điển hình là vắc-xin chống virut Epstein-Barr (EBV). EBV chịu trách nhiệm cho khoảng 200.000 trường hợp tử vong do u lympho, ung thư dạ dày và vòm họng mỗi năm trên toàn thế giới, phần lớn trong số đó ở các nước LMICs.
Một cột mốc nữa đánh dấu sự phát triển y học trong cuộc chiến chống ung thư - đó là sự ra đời của liệu pháp nhắm vào mục tiêu phân tử. Đây là một phương pháp điều trị mới sử dụng các thuốc được bào chế ở cấp độ phân tử tế bào để tấn công đặc biệt và giết chết chỉ các tế bào ung thư của từng loại ung thư cụ thể mà không ảnh hưởng đến các tế bào thường.
Ngoài ra, còn rất nhiều phương pháp điều trị mới, các phương thức tiếp cận mới đang được nghiên cứu và phát triển. Kèm theo đó là nhiều phân tử, dược chất được phát minh phục vụ cho cuộc chiến chống ung thư. Kết quả cho những nỗ lực không ngừng nghỉ này là tỉ lệ sống sót của bệnh nhân ung thư đang tăng theo cấp số nhân. Từ 8,4 triệu năm 1996 tăng lên khoảng 15,5 triệu hiện nay và dự đoán con số 26,1 triệu bệnh nhân sống sót sau ung thư vào năm 2040. Dự kiến, trong thời gian không xa, nhân loại có thể kiểm soát dứt điểm căn bệnh chết chóc này.
DS. NGUYỄN HẢI ĐĂNG
((Theo Cancer, 2017))