Thuốc giảm đau chỉ là những thuốc chữa triệu chứng, nếu dùng
quá liều gây nhiều tác dụng phụ nguy hiểm. Vì vậy cần chọn thuốc phù hợp để
không gây hại đến sức khỏe
Thuốc giảm đau chỉ là những thuốc chữa triệu chứng. Theo Hiệp
hội quốc tế nghiên cứu về đau (1979): “Đau là một kinh nghiệm khó chịu về mặt cảm
giác và cảm xúc liên quan đến tổn thương thực thể có thật hoặc được mô tả như
là có tổn thương”.
Người ta đã tính có tới 50% bệnh nhân đến gặp thầy thuốc vì
triệu chứng đau. Thực ra đau là một trong những phản ứng tự vệ của cơ thể; qua
mức độ và tính chất đau, điểm đau… thầy thuốc có thể chẩn đoán bệnh. Song, đau
là nỗi thống khổ của bệnh nhân, nhiều khi còn có thể gây ra những rối loạn chức
năng. Bởi vậy, dù chỉ là thuốc chữa triệu chứng, nhưng vẫn cần dùng, nhiều trường
hợp cần sử dụng với các thuốc điều trị khác để chữa tận gốc căn nguyên bệnh.
Các thuốc giảm đau có thể chia thành 3 nhóm tùy theo mức độ hiệu lực giảm đau.
Với các chứng đau nhẹ, đau vừa (bậc 1/theo thang bậc điều trị
đau của WHO):
Dùng quá liều thuốc giảm đau paracetamol gây tổn thương tế
bào gan
Dùng quá liều thuốc giảm đau paracetamol gây tổn thương tế
bào gan
Dùng một trong các thuốc giảm đau thông dụng nhất là
paracetamol, aspirin, ibuprofen… việc chọn lựa tùy theo sự nhạy cảm của từng
người, những chống chỉ định khác nhau, và sự tương tác của chúng với các thuốc
khác. Các thuốc này có thể mua tại các hiệu thuốc không cần đơn bác sĩ, nhưng cần
lưu ý :
Paracetamol (còn có tên khác là acetaminophen): Tác dụng giảm
đau (nhức đầu, đau răng, đau khớp) và hạ sốt hiệu quả, nhanh. Người lớn nên
dùng 1-2 viên 500mg/lần, và tối đa là 6 lần/ngày(24 giờ). Paracetamol dễ dùng
hơn aspirin hay ibuprofen… Tác dụng phụ chỉ là dị ứng nhưng rất hiếm và nổi mẩn.
Tương tác với thuốc khác hầu như không có. Nhưng khác với aspirin, ibuprofen …
paracetamol không có tác dụng chống viêm . Hiện nay paracetamol là thuốc được
khuyến cáo nên dùng vì có tác dụng tốt và độ an toàn cao. Tuy nhiên, nếu dùng
liều quá cao có thể gây độc tính với gan, nên không được dùng liều cao trong thời
gian dài. Do vậy thuốc này có chống chỉ định đối với những người bị suy gan. Hiện
nay paracetamol có tới 180 tên thương mại (biệt dược) khác nhau, mà trong thành
phần có paracetamol, hoặc paracetamol phối hợp với các dược chất khác. Bởi vậy
cần lưu ý không được dùng phối hợp các thuốc biệt dược này vì có thể dẫn đến
tai biến quá liều.
Aspirin (acetylsalicylic acid): Có tác dụng giảm đau và hạ sốt
tốt, còn tác dụng chống viêm thì rất yếu nếu dùng liều thấp; việc sử dụng cần
có chỉ định và theo dõi của bác sĩ điều trị . Tác dụng phụ khó chịu nhất là những
kích thích đường tiêu hoá có thể gây ra cảm giác nóng rát ở dạ dày, và có khi
chảy máu ở đường tiêu hoá, nhất là những người trước đây đã bị loét dạ dày - tá
tràng. Điều này đôi khi chỉ cần một liều với những người nhạy cảm; với liều cao
hơn (2g/ngày trong một tuần) có thể gây loét dạ dày. Để giảm nhẹ tác dụng phụ
nên uống thuốc vào bữa ăn hoặc ngay khi ăn xong. Aspirin làm loãng máu, do đó
nó có thể gây chảy máu mũi hay nướu răng ở những người bị rối loạn về đông máu
dù dùng với liều thấp (150-300mg/ngày); gây hiện tượng đa kinh. Cũng nên thận
trọng với sản phụ ở đầu thai kỳ (do chảy máu) và cuối thai kỳ (aspirin ngăn chặn
sự tiết chất tạo dễ dàng cho việc sinh đẻ). Điều cuối cùng là nó gây dị ứng nổi
mẩn, rối loạn hô hấp đôi khi rất nghiêm trọng, nhất là với những người có cơ địa
dị ứng (viêm mũi dị ứng, người từng có những cơn hen đã điều trị ổn định…). Với
trẻ em có thể gây nên hội chứng Reye – một bệnh nặng có tỷ lệ tử vong rất cao.
Về tương tác thuốc: nói chung đừng bao giờ dùng aspirin với một loại thuốc chống
viêm khác. Mặt khác nó còn làm giảm tác dụng của những thuốc lợi tiểu và thuốc
trợ tim. Ngược lại, nó tăng cường tác dụng của các thuốc chống đông máu, và đôi
khi là thuốc chống đái tháo đường.
Nhóm thuốc ibuprofen, phenylbutazon, indomethacin: Nhóm thuốc
này có tác dụng chống viêm tốt, giảm đau và hạ nhiệt, thường được dùng vào điều
trị các triệu chứng đau do thấp khớp, thoái hoá cột sống, thống phong (goutte).
Nhóm thuốc này nói chung có tác dụng phụ kích ứng dạ dày, do đó chống chỉ định
đối với những người loét dạ dày - tá tràng.
Với các chứng đau dữ dội (bậc 2)
Có thể dùng các thuốc giảm đau mạnh hơn như codein hoặc
dextropropoxyphen . Hai thuốc này thường phối hợp với một trong 3 thuốc thông dụng
kể trên như các biệt dược viên sủi giảm đau efferalgan-codein (paracetamol +
codein),viên di-altalvic (paracetamol + dextropropoxyphen), alaxan (paracetamol
+ ibuprofen)…
Với các chứng đau quá nặng (bậc 3)
Thường gặp trong các trường hợp đau do ung thư, do bỏng nặng,
hoặc chấn thương nặng… thì phải dùng đến morphin và các dẫn chất của nó. Vì dễ
gây ra hiện tượng quen thuốc, nghiện thuốc, chỉ sử dụng khi có sự chỉ định của
thầy thuốc, dùng đúng liều lượng, và đúng thời gian.
Ngoài ra, không xếp vào đây các thuốc giảm đau như: Thuốc điều
trị đau thắt ngực (nitroglycerin, isosorbid, dinitrat) vì chúng thuộc nhóm thuốc
tim mạch. Thuốc giảm đau chống co thắt do làm dãn cơ trơn (alverin, drotaverin,
papaverin, spasfon …). Thuốc đặc trị bệnh đau nửa đầu (ergotamin,
dihydroergotamin). Thuốc giảm đau do viêm thần kinh đau cơ (các vitamin hướng
thần kinh B1, B6, B12). Thuốc loại corticoid. Thuốc an thần gây ngủ (diazepam,
hydroxyzin…). Thuốc tê novocain … Cuối cùng cũng không tính đến các loại thuốc
giảm đau dùng ngoài như thuốc dán, thuốc bôi xoa, thuốc xịt có tác dụng tại chỗ,
không có tác dụng toàn thân.
Theo nguồn SKDS
Cám ơn ad
Trả lờiXóa