Mở
đầu
Nhi khoa là
lĩnh vực liên quan đến các lớp tuổi từ sơ sinh đến 18 tuổi. Đây là giai đoạn mà
cơ thể có sự phát triển và trưởng thành nhanh chóng. Có cơ quan, hệ thống cơ thể
và các enzyme liên quan đến số phận của thuốc với tốc độ khác nhau ở trẻ em, vì
thế liều lượng, dạng chế phẩm, đáp ứng với thuốc, các phản ứng có hại xảy ra
khi dùng thuốc rất khác biệt ở lứa tuổi này. Việc sử dụng thuốc ở trẻ em còn
chưa được nghiên cứu đầy đủ như ở người lớn, dạng chế phẩm phù hợp với trẻ em
thì không phải thuốc nào cũng có.
1. Phân loại trẻ em
Uỷ ban Đồng thuận
Quốc tế đề nghị chia các lớp tuổi của trẻ em như sau:
Bảng 1. Các lớp tuổi trong nhi
khoa
Phân loại trẻ em
|
Lớp tuổi
|
Sơ
sinh thiếu tháng
|
Sinh
khi chưa đầy 38 tuần thai
|
Sơ
sinh đủ tháng
|
0
– 27 ngày tuổi
|
Trẻ
nhỏ
|
Từ
28 ngày đến 23 tháng tuổi
|
Trẻ
em
|
Từ
2 đến 11 tuổi
|
Thiếu
niên
|
Từ
12 tuổi đến 18 tuổi
|
Cách phân loại
này phản ánh sự thay đổi về mặt sinh học qua từng giai đoạn: sơ sinh (dưới 4 tuần
tuổi) là giai đoạn thay đổi điển hình sau khi sinh, trẻ nhỏ (4 tuần đến 2 tuổi)
là giai đoạn phát triển rất nhanh của cơ thể, trẻ em (2 đến 11 tuổi) là giai đoạn
phát triển từ từ và thiếu niên là giai đoạn dậy thì, trẻ có sự phát triển nhanh
chóng và đạt đến chiều cao của người trưởng thành. Với mục đích chia liều, nhiều
khi trẻ từ 12 tuổi trở lên được coi như là người lớn. Tuy nhiên điều này chưa
chính xác vì rất nhiều trẻ 12 tuổi chưa dậy thì và chưa đạt đến chều cao, cân nặng
như người lớn.
2. Những đặc điểm về dược động học của thuốc ở trẻ em
Ở trẻ em, đặc
biệt là trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, nhiều cơ quan trong cơ thể chưa phát triển hoàn
thiện, do đó quá trình hấp thu, phân bố, chuyển hoá và bài xuất thuốc có rất
nhiều điểm khác biệt với lứa tuổi trưởng thành.
* Hấp thu thuốc:
Khả năng hấp
thu thuốc của cơ thể được đánh giá qua sự biến đổi sinh khả dụng của thuốc, trị
số này rất dao động ở trẻ nhỏ.
Đường uống: Sự khác biệt về sinh
khả dụng thường chỉ gặp ở trẻ dưới 1 tuổi. Nguyên nhân là:
- Độ pH dạ dày
cao hơn trẻ lớn vì lượng acid chưa được tiết đầy đủ, sự co bóp tống chất chứa
ra khỏi dạ dày yếu. Phải đến sau 1 tuổi, lượng acid mới tiết ra đầy đủ và phải
6 tháng tuổi thời gian tháo rỗng dạ dày mới đạt được như người lớn. Cả 2 điều
này làm ảnh hưởng đến hấp thu các chất như aspirin.
- Nhu động ruột
của trẻ nhỏ mạnh hơn trẻ lớn nên tốc độ di chuyển thuốc trong ống tiêu hoá
nhanh, làm giảm thời gian lưu của thuốc tại ruột chính vì vậy khả năng hấp thu
các thuốc có tác dụng kéo dài bị ảnh hưởng.
- Hệ enzyme
phân huỷ thuốc ở trẻ dưới 6 tháng chưa hoàn chỉnh nên ảnh hưởng đến hấp thu hoạt
chất.
Đường dùng tại chỗ:
Đường đưa thuốc
qua da cần đặc biệt được chú ý vì da trẻ em mỏng nên khả năng thấm thuốc mạnh
hơn người lớn, có thể gây phản ứng có hại.
Thuốc nhỏ mắt
hoặc nhỏ mũi, khi dùng cho trẻ cũng có thể hấp thu nhiều hơn ở người lớn và gây
tác dụng có hại: ví dụ các loại tinh dầu methol, long não nếu xoa vào mũi hoặc
lên da trẻ nhỏ có thể gây tác dụng kích thích mạnh lên ngọn sợi thần kinh dẫn đến
liệt hô hấp.
Các loại thuốc
hấp thu nhiều qua da hay nhỏ mũi như corticoid phải thận trọng ở trẻ em vì tác
dụng có thể tương đương như khi dùng qua đường toàn thân, gây ra các tác dụng
chậm lớn, hội chứng cushing.
3. Những khác biệt về đáp ứng với thuốc ở trẻ em
* Nhạy cảm với thuốc
Trẻ sơ sinh và
trẻ nhỏ rất nhạy cảm đối với một số nhóm thuốc. Đặc điểm này liên quan đến sự
phát triển chưa hoàn chỉnh một số cơ quan.
- Hệ thần kinh
trung ương: Hệ thần kinh trung ương hoàn thiện chậm và phải đến 8 tuổi mới đạt
mức bằng người lớn. Bên cạnh đó, tính thấm của hàng rào máu não cũng cao hơn ở
người lớn. Vì vậy trẻ em ở lứa tuổi này nhạy cảm đối với một số thuốc ức chế thần
kinh trung ương.
- Hệ tim mạch:
Hệ tim mạch hoàn thiện sớm hơn hệ thần kinh và chỉ một thời gian ngắn sau khi
ra đời, hoạt động của tim đã ngang bằng người lớn. Tuy nhiên, hoạt động của hệ
tim mạch chỉ bảo đảm được nhu cầu bình thường, còn khi stress hoặc bị ức chế bởi
thuốc mê thì có thể dẫn đến truỵ tim mạch.
- Hệ thống điều
hoà thân nhiệt: Khả năng điều hoà thân nhiệt chưa hoàn chỉnh cho đến 1 năm tuổi.
Nhiều thuốc hạ sốt có thể gây biến đổi thân nhiệt một cách đột ngột và gây tụt
nhiệt độ quá mức hoặc ngược lại gây sốt.
Bảng
2. Thay đổi nhiệt độ do thuốc
Thuốc
|
Hiện tượng
|
Aspirin
và các NSAIDs khác
|
Liều
cao gây tăng nhiệt độ
|
Paracetamol
|
Liều
cao gây toát mồ hôi, ớn lạnh, sốt
|
Kháng
Histamin H1
|
Liều
cao gây sốt
|
Các
loại tinh dầu: menthol, long não, …
|
Bôi
trên diện rộng gây hạ nhiệt độ do giãn mạch ở bề mặt rộng.
|
- Dị ứng da:
Bên cạnh chức năng điều hoà nhiệt độ chưa hoàn chỉnh còn có bề mặt rộng và tính
thấm cao nên rất nhạy cảm với thuốc. Thuốc có thể gây dị ứng, gây độc khi bôi
lên da. Phản ứng dị ứng là phổ biến nhất và thường ở dạng mề đây hoặc hồng ban.
Các dạng thuốc
gây dị ứng da rất khó phân biệt với các dạng dị ứng không phải do thuốc. Các
thuốc thường gây dị ứng da là: tetracyclin, aspirin, iod, các kháng histamine
bôi tại chỗ, …
4. Các tác dụng không mong muốn bất thường của thuốc ở trẻ
em.
Do đặc điểm về
sinh lý của trẻ em, tác dụng không mong muốn của thuốc ở lớp tuổi này cũng có
những khác biệt so với người lớn.
Sau đây là một
số ví dụ về những tác dụng không mong muốn của thuốc đối với trẻ em:
- Chậm lớn khi
dùng corticoid, tetracyclin
- Dậy thì sớm với
androgen
- Tăng áp lực sọ
não khi dùng corticoid, vitamin A, D.
- Vàng da với
sulfonamide, vitamin K3
- Lồi thóp và
vàng răng với tetracyclin
Vào năm 2013, để
điều trị chứng đau do bệnh đa xơ cứng, một phụ nữ đã sử dụng miếng dán fentanyl
trước ngực và sau đó ôm con vào lòng để ru ngủ. Khi tỉnh dậy, người phụ nữ này
nhận thấy đứa con trai 15 tháng tuổi của mình đã mất phản xạ. Đứa bé ngay lập tức
được đưa tới bệnh viện. Nhưng những nỗ lực của các nhân viên tại phòng cấp cứu
đã không thành công. Trong thời gian hồi sức, những mảnh vụn của miếng dán được
tìm thấy trong chất nôn ói của bé. Bác sĩ pháp y đã xác nhận, miếng dán đã gây
ra sự tắc nghẽn, phù phổi và độc tính cấp của fentanyl đã giết chết bé trai
này.
5. Những vấn đề lưu ý trong sử dụng thuốc ở trẻ em
a. Liều lượng
thuốc dùng cho trẻ em
Trẻ em không
đơn giản chỉ là người lớn thu nhỏ. Khi tính toán liều lượng thuốc dùng cho trẻ
cần cân nhắc tới tuổi, cân nặng và diện tích bề mặt cơ thể, đồng thời cần căn cứ
vào khả năng hoàn thiện chức năng gan, thận của trẻ.
Chỉ số tuổi và
cân nặng dễ có được nhưng nhu cầu thay đổi liều dùng thuốc ở trẻ em lại tỉ lệ
tương ứng nhất với sự thay đổi về diện tích bề mặt cơ thể. Có thể sử dụng toán
đồ để tính diện tích bề mặt cơ thể dựa vào chiều cao và cân nặng của trẻ. Cũng
có thể sử dụng bảng tỉ lệ liều so với người lớn được xây dựng trên căn cứ diện
tích bề mặt cơ thể để tính liều cho trẻ em.
Bảng
3. Tỉ lệ phần trăm liều người lớn cần dùng
cho trẻ
Lứa tuổi
|
Thể trọng trung bình
(kg)
|
% liều của người lớn
|
1
tuổi
|
10
|
25
|
3
tuổi
|
15
|
33,3
|
7
tuổi
|
23
|
50
|
10
tuổi
|
30
|
60
|
12
tuổi
|
39
|
75
|
14
tuổi
|
50
|
80
|
16
tuổi
|
58
|
90
|
Trưởng
thành
|
68
|
100
|
b. Chọn chế phẩm
và đường đưa thuốc
Việc lựa chọn một
dạng bào chế với một đường dùng phù hợp là một việc làm rất cần thiết khi điều
trị cho trẻ em.
* Các yếu tố quyết định trong lựa chọn chế phẩm bao gồm:
- Trạng thái bệnh:
bệnh cấp tính, bệnh mạn tính, mức độ nặng nhẹ, …
- Tuổi: trẻ
càng nhỏ, việc cho uống thuốc càng khó khăn, …
- Liệu pháp điều
trị phối hợp đang tiến hành: ví dụ bệnh nhân đang phải truyền dịch, đang phải
kiêng ăn mặn, …
- Thời điểm
dùng thuốc thuận lợi: tránh các thời điểm uống thuốc khi ở trường học hoặc bắt
buộc uống trước ăn sáng 1h, … vì khó tuân thủ. Những trường hợp này nên chọn dạng
thuốc tác dụng kéo dài hoặc có T1/2 dài, thuốc không bị thức ăn làm
giảm hấp thu.
- Khả năng có sẵn
của dạng thuốc dự kiến sử dụng.
* Các đường đưa thuốc thường dùng cho trẻ em
- Đường uống:
Đây là đường dùng phổ biến nhất, thường là dễ thực hiện nhất với hầu hết các đối
tượng. Tuy nhiên, nếu trẻ không chịu hợp tác thì đường uống lại không đảm bảo
hiệu quả điều trị. Với trẻ nhỏ (cho tới 6 tuổi), việc dùng các dạng thuốc viên
thường khó khăn. Các dạng thuốc lỏng (siro, dung dịch, hỗn dịch uống, …) có màu
sắc, mùi vị hấp dẫn là lựa chọn cho trẻ em trong trường hợp này.
Cần lưu ý tới
thành phần tá dược, pH, áp suất thẩm thấu của thuốc ở dạng lỏng, lựa chọn cho
phù hợp với trẻ. Cần khuyên cha mẹ của trẻ không được pha thuốc lẫn vào thức ăn
vì ngoài nguy cơ tương tác thuốc – thức ăn, thuốc còn có thể bị dùng không đủ
liều, không được bẻ hay nghiền nhỏ các thuốc có dạng bào chế đặc biệt cho trẻ uống
vì mất tác dụng của thuốc.
Việc nghiền nát
viên nén, mở vỏ viên nang để hòa vào nước uống hoặc thức ăn là một vấn đề thường
gặp và có thể liên quan tới việc không chính xác trong liều lượng. Nhà sản xuất
thường khuyên rằng nên kiểm tra tương tác giữa thuốc và các loại nước uống, thực
phẩm và những tác động lên sinh khả dụng của thuốc. Sự không chính xác về liều
có thể xảy ra khi cắt đôi viên thuốc không có khía chia liều, khối lượng của phần
thuốc được cắt ra thường giao động 50% đến 150% khối lượng thực của nửa viên
thuốc. Sử dụng các sản phẩm dùng để cắt thuốc có mặt trên thị trường cũng không
có khả năng tăng thêm độ chính xác. Phân chia viên thuốc thành những phần nhỏ
là điều không được khuyến cáo đối với những thuốc có khoảng trị liệu hẹp, các
thuốc độc hoặc những viên thuốc quá nhỏ.
- Đặt trực
tràng: Đây là đường dùng thuận lợi cho trẻ em, đặc biệt là trẻ nhỏ (dưới 3 tuổi),
nhất là trong những trường hợp sốt cao, ốm nặng (trẻ bỏ ăn, quấy khóc). Nhược
điểm là ít chế phẩm có dạng bào chế này và càng ít nữa loại phân liều phù hợp
cho trẻ em. Giá thành đắt, sinh khả dụng không ổn định cũng là một vấn đề cản
trở cho điều trị. Việt Nam có khí hậu nóng nên điều kiện bảo quản khó khăn cũng
là một điều cần lưu ý đối với các thuốc dùng đường trực tràng.
6. Sự tuân thủ điều trị
Với trẻ em ở lứa
tuổi 8 tuổi, việc dùng thuốc phải thông qua cha mẹ hoặc người bảo mẫu, vì vậy
khi kê đơn thuốc, phải ghi rõ ràng cách dùng và yêu cầu người bảo mẫu (cha, mẹ,
anh, chị, người trông trẻ, …) tuân thủ điều này. Nhắc lại để kiểm tra độ chính
xác của thông tin. Với trẻ trên 8 tuổi, việc uống thuốc có thể tự làm được
nhưng tốt nhất vẫn nên thông qua cha mẹ hoặc bảo mẫu để đôn đốc và kiểm tra.
Các thông tin về sử dụng thuốc vì vậy phải rõ ràng, dễ hiểu, chữ viết phải dễ đọc,
cách dùng thuốc nên chọn cách đơn giản nhất, dễ thực hiện nhất.
Làm cho trẻ em
hiểu được lý do phải dùng thuốc, phải dùng đủ liều, đúng cách, … để trẻ tự giác
thực hiện góp phần rất quan trọng cho điều trị thành công.
Việc chọn các dạng
thuốc mùi vị thơm ngon, không đắng, dễ nuốt, … làm cho trẻ em không có cảm giác
sợ dùng thuốc cũng là yếu tố tăng khả năng tuân thủ điều trị.
7. Nguyên tắc trong sử dụng thuốc cho trẻ em
Sử dụng thuốc
cho trẻ em là một lĩnh vực khó khăn đòi hỏi không chỉ tính chính xác mà cả kiên
trì, tỉ mỉ. Việc lạm dụng hoặc sử dụng không đúng có thể dẫn đến hậu quả nghiêm
trọng với các di chứng có khi theo suốt cuộc đời của trẻ.
Vì vậy, cần phải
tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
- Chỉ dùng thuốc
khi thật cần thiết.
- Lựa chọn thuốc
và liều dùng phải căn cứ vào những biến đổi dược động học và khác biệt về đáp ứng
với thuốc ở từng giai đoạn phát triển của trẻ em.
- Phác đồ điều
trị phải thiết lập hợp lý để tăng khả năng tuân thủ điều trị:
·
Đơn giản (về số lần
đưa thuốc trong ngày, về cách dùng, đường đưa thuốc, …)
·
Thời điểm đưa thuốc
phù hợp (nên tránh giờ ngủ, giờ đi học)
Phân liều thuốc dạng lỏng cho trẻ em:
Với nỗ lực nhằm
hạn chế sự sai sót về liều ở trẻ em, Hiệp hội nhi khoa Hoa kỳ (the American
Academy of Pediatrics) đề xuất rằng dạng thuốc nước nên được kê toa ở dạng đơn
vị chia liều hơn là đơn vị thìa café hoặc thìa canh.
Mặc dù một số
chuyên gia chăm sóc sức khỏe tỏ ra lo lắng về việc gia tăng các lỗi kê toa khi
người dân Mỹ khá lạ lẫm với dạng chia liều ml, nhưng AAP khẳng định rằng chỉ cần
đưa ra một số biện pháp giáo dục tối thiểu đã có thể giúp bảo đảm tính an toàn.
Để thực hiện chính sách trên và tư vấn chính xác với cha mẹ và người chăm sóc
trẻ, các dược sĩ nên tuân thủ các bước sau: Chia thuốc dạng lỏng bằng các bơm
tiêm có thể tích phù hợp và vạch chia đơn vị rõ ràng. Nhãn thuốc nên được ghi bằng
đơn vị ml (chỉ nên dùng một loại ký hiệu viết tắt này). Tư vấn cho cha mẹ và
người chăm sóc sử dụng thuốc theo đơn vị ml. Cân nhắc sử dụng thiết bị giới hạn
dòng chảy của chai và bơm tiêm, điều này nhằm hạn chế việc trẻ tự uống thuốc
khi không có người giám sát đồng thời giúp cha mẹ dễ dàng rút liều thuốc cuối
cùng bằng bơm tiêm.
DS Nguyễn Sơn Lâm
Tài liệu tham khảo:
- Paediatric Drug Handling, Ian Costello, Paul FLong, Ian K Wong, Catherin Tuleu and Vincent Yeung- How Pharmacists Can Manage Metric Dosing ofChildren's Medications
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét