Mở đầu
Các nhà nghiên
cứu tại Viện Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of Pediatrics - AAP) khuyên người
mẹ nên cho con bú sữa mẹ ít nhất 6 tháng đầu sau khi sinh.
Sữa mẹ thức ăn
tốt nhất chứa nhiều carbohydrat, chất béo, protein cần cho dinh dưỡng của bé. Sữa
mẹ cũng cung cấp các enzym, vitamin, khoáng chất và hormon có lợi cho trẻ. Hơn
nữa sữa mẹ còn chứa các kháng thể nhằm bảo vệ trẻ trước bệnh tật.
Tuy nhiên,
trong thời kì cho con bú, người mẹ có thể phải dùng thuốc, các phương pháp điều
trị ngắn hạn hoặc dài hạn do mắc các bệnh cấp tính hay mạn tính. Trẻ bú sữa mẹ
sẽ vô tình dùng thuốc do thuốc thải trừ qua sữa, điều này có thể gây hại cho trẻ
bởi vì khi trẻ mới sinh, chức năng của các cơ quan chuyển hóa và thải trừ thuốc
như gan, thận chưa hoàn thiện.
Theo nghiên cứu
của trên 15 000 phụ nữ mang thai của 22 nước có đến 86% phụ nữ sử dụng 2,9 toa
thuốc trong thai kỳ, đó là chưa kể đến những thuốc không cần kê đơn. Theo 1
nghiên cứu cho thấy 90 – 99% phụ nữ cho con bú sử dụng thuốc trong tuần đầu sau
khi sinh, 17 – 25% sử dụng thuốc 4 tháng sau khi sinh, 5% sử dụng thuốc dài hạn
trong thời gian cho con bú. Hầu hết thuốc sử dụng cho mẹ đều tiếp xúc với bào
thai ở nhiều mức độ. Những con số trên cho thấy nhiều thuốc được sử dụng trong
thời kỳ mang thai và cho con bú, có khi các thuốc này không được chỉ định rõ
ràng. Vì vậy cần phải thông tin đầy đủ, chính xác những nguy cơ và lợi ích về
việc sử dụng thuốc trong lúc mang thai và cho con bú.
1. Các thuốc ảnh hưởng đến thai kỳ
Việc bài tiết sữa
được điều hòa bằng prolactin, hormon được bài xuất bởi thùy trước tuyến yên.
Bài tiết sữa tăng hay giảm phụ thuộc vào nồng độ prolactin trong máu. Do đó cần
lưu ý khi sử dụng các thuốc làm thay đổi nồng độ prolactin. Một số thuốc làm giảm
tiết sữa điển hình là estrogen.
Trong lâm sàng,
dược sĩ thường xuyên gặp phải những câu hỏi liên quan đến tính an toàn của thuốc
trong thời kì mang thai và cho con bú. Ví dụ, trong số các thuốc sử dụng để điều
trị một bệnh thì thuốc nào ít tác dụng gây quái thai nhất. Nguồn thông tin mà cả
nhân viên y tế và người dùng thuốc dễ có được nhất là tờ thông tin sản phẩm
đang được lưu hành, trong đó ghi: “Không khuyến cáo sử dụng trong thời kì mang
thai trừ khi lợi ích thu được lớn hơn nguy cơ tiềm tàng với thai”. Trong khi
đó, câu trả lời thực sự cần thiết phải là “có” hay “không”.
Bảng dưới đây
tóm tắt các nhóm thuốc gây dị tật hoặc các tác dụng có hại cho bào thai.
Bảng
1. Các thuốc gây dị tật hoặc các tác dụng có hại khác cho bào thai
Thuốc
|
3 tháng trong thai kỳ
|
Tác dụng
|
Ức
chế men chuyển - ACEi
|
Tất
cả nhất là 2 và 3
|
Tổn
thương thận
|
Cocain
|
Tất
cả
|
Tăng
nguy cơ sẩy thai tự phát, bong nhau, sinh non, phát triển bất thường, nhồi
máu não trẻ sơ sinh, giảm khả năng học tập
|
Diazepam
|
Tất
cả
|
Dùng
lâu dài gây lệ thuộc thuốc cho trẻ sơ sinh
|
Etanol
|
Tất
cả
|
Hội
chứng alcol bào thai, rối loạn phát triển thần kinh do rượu
|
Heroin
|
Tất
cả
|
Dùng
lâu dài gây lệ thuộc thuốc trẻ sơ sinh
|
Iodid
|
Tất
cả
|
Bướu
giáp bẩm sinh, nhược giáp
|
Metronidazol
|
1
|
Đột
biến ở súc vật, chưa thấy ở người
|
Misoprotol
|
1
|
Liệt
mặt 2 bên
|
Dung
môi hữu cơ
|
1
|
Đa
dị dạng
|
Penicilamin
|
1
|
Sa
dãn da, các dị tật bẩm sinh khác
|
Phencyclidin
|
Tất
cả
|
Khám
nghiệm thần kinh bất thường, phản xạ bú kém
|
Hút
thuốc lá
|
Tất
cả
|
Chậm
phát triển ở tử cung, sinh non, hội chứng thai chết thình lình, biến chứng
chu sinh
|
Streptomycin
|
Tất
cả
|
Độc
thần kinh số 8
|
Tetracyclin
|
Tất
cả
|
Đổi
màu răng, khiếm khuyết răng, ảnh hưởng phát triển xương
|
Trimethadion
|
Tất
cả
|
Nhiều
bất thường bẩm sinh
|
Acid
valproic
|
Tất
cả
|
Dị
dạng ống thần kinh, tim và chi
|
Chú thích:
1: 3 tháng đầu thai kỳ 2: 3 tháng giữa thai kỳ 3: 3 tháng cuối thai kỳ
2.
Lựa chọn thuốc cho phụ nữ mang thai và cho con bú
Trong thời kỳ
mang thai, có những rối loạn do thai kỳ, đó là:
Nguy cơ gây dị
tật bẩm sinh 3 – 5%, trong đó dị tật do thuốc chiếm tỉ lệ rất nhỏ (< 1%). Có
1 số thuốc có khả năng gây dị tật trong thai kỳ phần lớn có thể tránh được. Nếu
phải dùng thuốc này vì cần thiết cho mẹ thì nên xem xét đường sử dụng và chế độ
liều để giảm thiểu nguy cơ gây độc cho bào thai.
a. Táo bón:
Thai phụ và phụ
nữ cho con bú chọn lactulose, sorbitol, polyetylen glycol nhưng không dùng thường
xuyên. Thỉnh thoảng có thể dùng senna, bisacodyl. Nên tránh dầu khoáng (giảm hấp
thu vitamin tan trong dầu) và dầu castor (gây sinh non).
b. Trào ngược dạ
dày thực quản:
Ảnh hưởng đến
80% thai phụ
- Thai phụ: Khắc
phục bằng cách thay đổi lối sống và thức ăn (ăn nhiều lần, tránh thức ăn nhiều
gia vị, cà phê, nước cam), tránh ăn trước lúc đi ngủ, bỏ thuốc lá và rượu, ngủ
kê đầu cao. Nếu không khỏi thì bắt đầu dùng antacid chứa nhôm, calci, magie,
tránh antacid có NaHCO3. Thuốc thay thế là kháng H2
(ranitidine, cimetidine), sulcrafat hoặc metoclopramide, omeprazole và
lanzoprazol.
- Phụ nữ cho
con bú: Có thể uống sucralfate, famotidine.
c. Buồn nôn và
ói mửa:
Đến 80% thai phụ
bị triệu chứng này nhưng chỉ có 1 – 3% bị nôn nghén nặng làm sụt cân và ceton
niệu. Khắc phục: Thay đổi chế độ ăn, ăn ít nhưng nhiều lần, ăn đồ ngọt, tránh đồ
béo, giảm thời gian làm việc, ngủ trưa, tránh áp lực và kích thích. Dùng
pyridoxine và cyanocobalamin (B12) được chứng tỏ là có hiệu lực.
Kháng histamine (kể cả doxylamin) có hiệu lực chưa thấy độc tính. Phenothiazin
và metoclopramide được sử dụng rộng rãi và nhìn chung là an toàn.
Corticosteroid (dexamethasone, prednisolone) được chứng minh có hiệu lực do nôn
nghén nặng nhưng hơi tăng nguy cơ chẻ vòm miệng nếu dùng trong 3 tháng đầu thai
kỳ. Gừng được chứng tỏ có hiệu lực và an toàn cho nôn nghén nặng trong 5 nghiên
cứu có kiểm soát, ngẫu nhiên.
d. Cảm cúm:
* Thuốc kháng
histamine:
- Thai phụ: Nên
dùng chlorphenidramin (Aller-chlor), triprolidin (Actifed). Không nên dùng
brompheniramin trong 3 tháng đầu thai kỳ vì gây dị tật bào thai.
- Phụ nữ cho
con bú: Thận trọng với clemastin (Agasten, Tavegyl) thuốc thay thế là cromolyn
đường mũi, beclomethasone hoặc flunisolid.
* Thuốc chống
viêm mũi dị ứng:
- Thai phụ: Thuốc
lựa chọn hàng đầu là corticosteroid (Beclomethason và budesonide) cho vào mũi,
cromolyn (nhỏ mũi) và kháng histamine thế hệ 1 (loratadin, cetirizine) dường
như cũng không tăng nguy cơ cho bào thai nhưng chưa nghiên cứu rộng rãi như
kháng histamine thế hệ 1. Có thể dùng oxymetazolin dạng nhỏ mũi hoặc corticoid
hít, được ưa thích hơn thuốc chống sung huyết đường uống.
- Phụ nữ cho
con bú: Có thể dùng pseudoephedrine (Sudafed)
* Thuốc ho:
Thai phụ nên
dùng dextromethorphan và guaifenesin (thuốc lựa chọn), tránh các chế phẩm có
alcol vì gây hội chứng alcol bào thai như gây khiếm khuyết cho hệ thần kinh sọ
mặt (fetal alcohol syndrome) và rối loạn phát triển trí tuệ, thể chất.
e. Nhức đầu
Nguyên phát
(căng thẳng, đau nửa đầu) hay thứ phát (chấn thương, nhiễm trùng). Nếu không
đáp ứng với nghỉ ngơi, chườm đá thì dùng thuốc như acetaminophen (có hay không
có codein), NSAIDs dùng trong 3 tháng đầu, trừ aspirin và indomethacin bị chống
chỉ định suốt thai kỳ vì gây đóng ống thần kinh, chảy máu ở mẹ và bào thai, giảm
co tử cung. Không nên dùng ergotamine và dihydroergotamin.
f. Tăng huyết
áp
Bổ sung calci
1g/ngày cho tất cả thai phụ để ngừa tăng huyết áp và giảm nguy cơ tiền sản giật
(50%). Aspirin liều thấp 75 – 81mg/ngày, bắt đầu sau tuần thứ 2 thai kỳ để giảm
sinh non (17%), giảm tiền sản giật, giảm chết thai (14%).
Thuốc trị tăng
huyết áp cho phụ nữ mang thai thường dùng metyldopa, labetalol và CCB. Nên
tránh ACEi (suy thận bào thai, dị tật, chết thai), diazoxid (tăng đường huyết
và cản trở sanh), nimodipin, chlorpromazine, thuốc LT thiazide và LT quai (giảm
tưới máu bào thai) từ các ca khó chữa có thể dùng 3 tháng cuối thai kỳ.
Phụ nữ cho con
bú: có thể dùng labetalol, metoprolol, propranolol, nifedipin, captopril,
enalapril, acetazolamide, spironolactone, LT thiazide (LT thiazide có thể gây
giảm tiểu cầu, ức chế tiết sữa, dị ứng loại sulfamid). Không nên dùng LT quai
như furosemide (lasix) vì ức chế tiết sữa.
g. Sử dụng
kháng sinh trong thai kỳ và cho con bú
* Các thuốc
kháng vi sinh vật bị chống chỉ định cho thai kỳ: Ribavirin, amantadine,
cinoxacin, ciprofloxacin, norfloxacin, erythromycin estolat, acid nalidixic,
griseofulvin.
* Các kháng
sinh được xem là an toàn khi sử dụng trong thai kỳ: Penicillin, aztreonam,
cephalosporin, erythromycin base, methenamin mandelat, spectinomycin,
chloroquine và praziquantel.
* Đối với phụ nữ
cho con bú: Có thể sử dụng hầu hết kháng sinh vì liều dùng tương đối thấp. Có
khả năng gây tiêu huyết trẻ sơ sinh thiếu G6PD do acid nalidixic,
nitrofurantoin, thuốc sulfamid.
3. Nguyên tắc sử dụng thuốc trong thời kỳ mang thai và cho
con bú
a.
Phụ nữ mang thai
Tránh sử dụng
thuốc trong 3 tháng đầu thai kỳ vì đó là giai đoạn có những biến đổi sâu sắc về
hình thái và biệt hoá các cơ quan nên phôi thai rất nhạy cảm với thuốc, bào
thai chuyển hoá và đào thải thuốc kém.
Nên dùng đơn trị
liệu với liều thấp nhất có hiệu lực.
Khi lựa chọn
thuốc cần quan tâm đến các yếu tố sau:
- Cân nhắc kỹ
lưỡng giữa nguy cơ và lợi ích của thuốc.
- Chỉ chọn các
thuốc có hiệu quả cao nhất với nguy cơ gây dị dạng bào thai thấp nhất.
- Khi sử dụng
thuốc ở giai đoạn cuối của thai kỳ cần quan tâm đến tác dụng của thuốc khi chuyển
dạ, chẳng hạn tăng nguy cơ xuất huyết khi dùng aspirin.
- Nên nhớ dược
động học của phụ nữ mang thai có những biến đổi so với bình thường như tăng
creatinin thận và gan, giảm gắn protein huyết tương và tăng thể tích phân bố
nên nồng độ thuốc trong huyết thanh thấp hơn bình thường.
Tránh sử dụng
thuốc không cần thiết như thuốc nhức đầu, cảm cúm.
b. Phụ nữ cho
con bú:
Khi sử dụng thuốc
ở phụ nữ cho con bú, cần tuân thủ những nguyên tắc sau:
- Hạn chế tối
đa dùng thuốc
- Chọn thuốc an
toàn cho trẻ bú mẹ, thuốc có tỉ lệ nồng độ sữa/ huyết tương thấp, thải trừ
nhanh.
- Tránh dùng
thuốc liều cao, nên dùng trong thời gian ngắn nhất và ngừng ngay khi đạt hiệu
quả.
- Thời điểm
dùng thuốc nên chọn ngay sau khi cho trẻ bú xong.
- Nếu không được
phép cho trẻ bú mẹ trong khi dùng thuốc, cần vắt sữa bỏ đi và dùng sữa ngoài
thay thế. Sau khi ngừng thuốc cần chờ thêm một thời gian thích hợp (4 lần T1/2)
rồi mới cho trẻ bú lại.
- Cân nhắc lợi
ích/ nguy cơ cho cả mẹ và con trước khi quyết định dùng thuốc.
Tốt nhất là lựa
chọn những thuốc ít qua sữa mẹ, có thời gian bán thải ngắn, gắn nhiều protein
huyết tương, có sinh khả dụng thấp, tan trong lipid thấp.
Chọn đường hấp
thu thay thế để giảm đến mức thấp nhất lượng thuốc qua sữa mẹ. Ví dụ dùng dạng
hít đối với các chế phẩm corticosteroid, thuốc giãn phế quản, thuốc chống sung
huyết mũi.
Tránh cho bú
vào thời điểm thuốc đạt nồng độ đỉnh trong sữa. Một cách tổng quát, thời gian đạt
nồng độ đỉnh trong sữa khi uống 1 liều thuốc là 1- 3 giờ. Nếu bà mẹ uống loại
thuốc tương đối an toàn thì nên dùng thuốc 30 – 60 phút trước khi cho con bú và
3 – 4 giờ trước lần cho bú kế tiếp. Điều này khó thực hiện với trẻ sơ sinh vì
chúng bú thường xuyên và bất kể giờ giấc. Nguyên tắc này được thực hiện tốt đối
với các thuốc có thời gian bán thải ngắn trong các chế phẩm không thuộc loại
phóng thích chậm.
Ngoài ra, phụ nữ
cho con bú nên bổ sung hỗn hợp vitamin và dùng 1200 mg calci hàng ngày.
c. Đối với thuốc
có T1/2 dài, ngày uống 1 lần
Uống thuốc trước
khi đứa bé ngủ 1 giấc lâu nhất. Đối với thuốc phải uống nhiều lần, hãy uống thuốc
ngay sau khi cho bú để có 1 khoảng thời gian dài nhất cho nồng độ thuốc trong
máu mẹ giảm xuống thuốc sẽ khuếch tán ngược trở lại máu mẹ.
Tạm ngừng cho
bú khi chỉ điều trị thuốc trong 1 thời gian ngắn. Ví dụ điều trị về nha khoa
hay phẫu thuật phải dùng thuốc thì mẹ phải hút sữa trước khi tiến hành phẫu thuật
để tránh căng vú khi không cho bú và có sữa dành cho bé trong thời gian không
cho bú. Sẽ cho bé bú trở lại khi được 2 lần thời gian bán thải của liều cuối
cùng (tức là đào thải độ 50 – 75% lượng thuốc). Đối với thuốc có khả năng gây độc
ngay cả với liều nhỏ thì chỉ cho trẻ bú trở lại sau 5 lần thời gian bán thải của
liều cuối cùng (tức là đã đào thải từ 84 – 97% lượng thuốc) hoặc lâu hơn.
Ngừng cho bú: Đối
với 1 số ít thuốc rất cần cho sức khoẻ của người mẹ (như thuốc trị ung thư và
quá độc đối với đứa bé thì cách hay nhất là nên ngừng cho bé bú và thay bằng sữa
bột.
Bảng
2. Thuốc gây dị dạng hoặc nghi ngờ gây dị dạng bào thai
Thuốc đã kết luận
gây dị dạng
bào thai |
Thuốc nghi ngờ gây dị
dạng
bào thai |
Thuốc
ức chế men chuyển (ACEi), alcol, thuốc chống động kinh, cocain, iodur,
vaccine sống, tetracyclin (đặc biệt tuần 24 – 26), thalidomide, warfarin
|
Benzodiazepin
(diazepam), estrogen, methimazol, quinolone, thuốc hạ đường huyết dùng đường
uống, progestin.
|
Thuốc gây tác dụng
có hại không thuộc loại gây dị dạng bào thai: Aminoglycosis, aspirin,
ß-blocker, cafein, chloramphenicol, isoniazid, nicotin, NSAIDs, sulfonamide,
thuốc lợi tiểu, thuốc hạ đường huyết uống.
Thuốc chống chỉ
định khi đang cho con bú: Amiodaron, amphetamine, ergotamine, misoprotol.
Bảng
3. Thuốc lựa chọn cho phụ nữ mang thai và cho con bú
Loại thuốc
|
Trong thai kỳ
|
Trong thời gian cho
con bú
|
Thuốc
trị buồn nôn, ói mửa
|
Mecizin,
dimenhydrat
|
|
Thuốc
giảm đau
|
Acetaminophen
|
Acetaminophen
|
Thuốc
ho
|
Dextromethorphan,
guaifenesin
|
|
Thuốc
trị tăng huyết áp
|
Methyldopa
|
ACEi
hoặc CCB
|
Kháng
sinh
|
Penicillin
hoặc cephalosporin
|
Penicillin
hoặc cephalosporin
|
Corticosteroid
|
Prednison
|
Prednison
|
Thuốc
bảo vệ dạ dày, ruột
|
Mg(OH)2,
Al(OH)3, CaCO3, Ranitidin, sucralfate
|
Sucralfat
hoặc famotidine
|
Thuốc
nhuận tràng mềm phân
|
Lactulose,
sorbitol
|
Psyllium
hoặc docusate
|
4.
Cảnh báo mới về sử dụng paracetamol trong thai kỳ

Trên tạp chí
Nhi khoa Jama vào tháng 02/2014 đã đưa ra cảnh báo về việc sử dụng paracetamol
trong thai kỳ. Cảnh báo trên bắt nguồn từ nghiên cứu của VCLA phối hợp với Đại
học Aarhus ở Đan Mạch cho thấy các đứa trẻ có mẹ sử dụng paracetamol trong thai
kỳ có nguy cơ rối loạn hành vi và rối loạn tăng động thái quá so với các đứa trẻ
có mẹ không sử dụng paracetamol.
Các nghiên cứu
của Đại học California Los Angles đã phân tích 64 322 đứa trẻ em và mẹ của
chúng cho thấy trẻ em có mẹ sử dụng paracetamol trong thời gian dài > 20 tuần
mang thai có nguy cơ > 50% trẻ được chuẩn đoán rối loạn tăng động.
Các tác giả,
Miriam Cooper, Cardift Đại học y khoa cho rằng các kết quả trên cung cấp bằng chứng
sơ bộ về việc sử dụng paracetamol trong thai kỳ làm tăng nguy cơ rối loạn hành
vi ở trẻ em. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu cũng cho rằng cần nghiên cứu thêm để
xác nhận kết quả. Vậy paracetamol không còn được coi là thuốc giảm đau an toàn
trong thai kỳ.
DS Nguyễn Sơn Lâm
Tài liệu tham khảo:
- Drugs during Pregnancy and Lactation 2nd
- Prescribing in Pregnancy, Fourth edition
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét